Triết học Mác - Lênin

Ôn tập tổng hợp

Tổng hợp các lý thuyết, kiến thức trọng tâm của môn Triết học MÁC LÊNIN

Table of Contents
expand_more expand_less

CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1.1.TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1.1.1.Khái lược về triết học

1.1.2.Vấn đề cơ bản của triết học

1.1.3.Biện chứng và siêu hình

1.2. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1.2.1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin

1.2.2.Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin

1.2.3.Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I.VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1.Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất

1.1.Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C. Mác về phạm trù vật chất

1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và sự phá sản của các quan niệm duy vật siêu hình về vật chất

1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất

1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất

1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới

2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

2.1. Nguồn gốc của ý thức

2.2. Bản chất của ý thức

2.3. Kết cấu của ý thức

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình

3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

3.3. Ý nghĩa phương pháp luận

II- PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật

1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan

1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật

2. Nội dung của phép biện chứng duy vật

2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật

2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

2.3.1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại

2.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

- Việc giải quyết mâu thuẫn phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là phải xác định được vị trí, vai trò của từng loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết cụ thể với yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn.

2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định

III- LÝ LUẬN NHẬN THỨC

1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

3.1. Phạm trù thực tiễn

3.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

3.3. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức

3.4. Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn

Chương 3: Chủ nghĩa duy vật lịch sử

I. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của trình độ sản xuất:

1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó

a, Khái niệm sản xuất vật chất

2. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

a, Khái niệm

II. Biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

1. Các khái niệm:

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:

III. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:

1. Tồn tại xã hội

2. Ý thức xã hội

3. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

IV. Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội và quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

1. Khái niệm và kết cấu

• Phạm trù hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở một giai đoạn nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên kiểu quan hệ sản xuất đó.

2. Sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao là một quá trình lịch sử tự nhiên

V. Vai trò đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a, Khái niệm giai cấp

b, Nguồn gốc giai cấp

2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a, Khái niệm cách mạng xã hội

b, Nguyên nhân của cách mạng xã hội

VI. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

1. Con người và bản chất của con người

2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

a, Khái niệm quần chúng nhân dân

b, Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân

DETAILED INSTRUCTION

CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1.1.TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1.1.1.Khái lược về triết học

a.Nguồn gốc của triết học

hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.

 

- Nguồn gốc nhận thức:

           Về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên của con người mà đỉnh cao của nó là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn giáo sơ khai. Thời kỳ triết học ra đời cũng là thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình này.

 

            Triết học ra đời đáp ứng yêu cầu của con người. Một mặt, đó là từ tri thức riêng lẻ, cụ thể, cảm tính về thế giới phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quy luật… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Mặt khác, con người không thỏa mãn với cách lý giải của các tín điều và giáo lý tôn giáo.

 

            Bởi vậy, triết học chỉ xuất hiện khi tư duy con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa và có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.

              - Nguồn gốc xã hội:

              Triết học không ra đời trong xã hội mông muội, dã man. Nó được ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và xã hội xuất hiện giai cấp, nhà nước. Ở đó, tầng lớp trí thức, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu tượng hóa, hệ thống hóa toàn bộ tri thức của thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để xây dựng các học thuyết, các triết thuyết.

 

               Triết học mang tính đảng bởi vì tự nó đã mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.

 

b.Khái niệm Triết học

 

               Ở Trung Quốc, chữ triết là sự truy tìm bản chất của đối tượng. Triết học là biểu hiện cao của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ thế giới và định hướng nhân sinh quan cho con người.

 

                Ở Ấn Độ, thuật ngữ Darsana (triết học) nghĩa gốc là chiêm ngưỡng - là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.

 

                Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học”- philosophia có nghĩa là yêu mến sự thông thái. Người Hy Lạp Cổ đại quan niệm, philosophia vừa mang nghĩa là giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.

 

                Như vậy, ngay từ đầu triết học đã là hoạt động tinh thần bậc cao. Khác với các loại hình tri thức xây dựng thế giới quan dựa trên niềm tin và sự tưởng tượng về thế giới, triết học sử dụng các công cụ lý tính, các tiêu chuẩn logic và những kinh nghiệm để diễn tả thế giới và khái quát thế giới bằng lý luận.

 

                 Có nhiều định nghĩa về triết học, nhưng các định nghĩa thường bao hàm những nội dung chủ yếu sau:

-Triết học là một hình thái ý thức xã hội

 

-Khách thể khám phá của triết học là thế giới trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn vốn có của nó.

 

-Triết học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới với mục đích tìm ra

những quy luật phổ biến nhất chi phối và quyết định sự vận động của thế giới, của con người và của tư duy.

 

-Tri thức triết học mang hệ thống, logic và trừu tượng về thế giới, bao gồm những nguyên tắc cơ bản, những đặc trưng bản chất và những quan điểm nền tảng về mọi tồn tại.

 

-Triết học là hạt nhân của thế giới quan

 

Với sự ra đời của triết học Mác – Lênin, triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung của tự nhiên, xã hội và tư duy.

 

c.Đối tượng của triết học trong lịch sử

-Đối tượng của triết học là các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy.

 

-Thời Cổ đại: triết học là khoa học của mọi khoa học, là nền triết học tự nhiên bao gồm trong nó tất cả các tri thức thuộc về khoa học tự nhiên.

 

-Thời Trung Cổ: triết học Kinh viện. Đối tượng nghiên cứu của triết học Kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề như niềm tin, tôn giáo, thiên đường với những nội dung nặng về tư biện.

 

-Thời Phục hưng: với sự phát triển mạnh mẽ của các bộ môn khoa học chuyên ngành, triết học không còn là “khoa học của mọi khoa học”.

 

-Hoàn cảnh kinh tế- xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, đối tượng nghiên cứu của triết học được xác lập một cách hợp lý.

d.Triết học- hạt nhân lý luận của thế giới quan

- Thế giới quan là hệ thống quan điểm của con người về thế giới. Đó là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

 

- Thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.

 

- Thế giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng hành động. Thế giới quan được phân loại theo nhiều cách khác nhau trong đó thế giới quan chung nhất, phổ biến nhất là thế giới quan triết học.

 

- Hạt nhân lý luận của thế giới quan:

      Thứ nhất, bản thân triết học chính là thế giới quan.

 

      Thứ hai, trong các thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, thời đại… triết học đóng vai trò là nhân tố cốt lõi.

 

      Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường… , triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể không tự giác.

 

      Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

 

 

        Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của các loại thế giới quan. Nó bao gồm tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.

 

        Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống. Bởi lẽ, thứ nhất, những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan; thứ hai, thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực trong khám phá và chinh phục thế giới.

 

        Như vậy, triết học với tính cách là hạt nhân lý luận nên chi phối mọi thế giới quan cho dù người ta có chú ý và thừa nhận điều đó hay không.

 

1.1.2.Vấn đề cơ bản của triết học

a.Nội dung vấn đề cơ bản của triết học

 

Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề nền tảng, là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Ph.Ăngghen: “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ biện chứng giữa tư duy và tồn tại”

.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

 

      Mặt thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

      Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

 

    Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của các trường phái triết học.

 

b.Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

 

      Chủ nghĩa duy vật: vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức, nguyên nhân tận cùng của mọi vận động là nguyên nhân vật chất.

 

      Chủ nghĩa duy tâm: ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới tự nhiên.

 

    - Ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:

 

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ở thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa

nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và đưa ra những kết luận mà về sau người ta thấy mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất phác.

 

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình ở thế kỷ thứ XVII, XVIII. Chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, cơ giới - phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà một bộ phận tạo nên thế giới đó về cơ bản là ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại.

 

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó mà còn là công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng xã hội tiến bộ cải tạo hiện thực ấy.

 

     -Hai hình thức của chủ nghĩa duy tâm:

 

+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người và khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

 

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người.

 

+ Nhị nguyên luận: cho rằng vật chất và tinh thần có thể cùng tồn tại và quyết định nguồn gốc và sự vận động của thế giới. Song, xét đến cùng nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.

c.Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết Bất khả tri)

-Thuyết Khả tri (có thể biết) không định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật.

 

-Thuyết Bất khả tri (không thể biết) phủ nhận khả năng nhận thức của con người mà cụ thể là con người không thể hiểu được bản chất của đối tượng.

 

- Thuyết hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan.

1.1.3.Biện chứng và siêu hình

a.Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử

 

-Phương pháp siêu hình: nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh, cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan hệ được xem xét, sự biến đổi chỉ là biến đổi về số lượng, về các hiện tượng bề ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi coi là nằm ở bên ngoài đối tượng.

 

-Phương pháp biện chứng: nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau.

 

b) Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử

 

-Phép biện chứng tự phát thời Cổ đại cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế giới vận động trong sự sinh thành, biến hóa vô cùng, vô tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng thời đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa có các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.

 

-Phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức cho rằng biện chứng bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần. Theo họ, thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.

 

-Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin và các nhà triết học hậu thế phát triển với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

 

1.2. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1.2.1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin

a.Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác

* Điều kiện kinh tế - xã hội

 

Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp.

 

           Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc, do đó đã thể hiện rõ tính hơn hạn của nó so với phương thức sản xuất phong kiến.

 

            Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội càng gay gắt, xung đột giữa vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.

 

            Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập là nhân tố chính trị - xã hội quan trọng cho sự ra đời triết học Mác.

 

           Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.

            Thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng vô sản, đòi hỏi phải được soi sáng bởi lý luận nói chung và triết học nói riêng. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử.

 

* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên

-        nguồn gốc lý luận:

 

            Chủ nghĩa Mác ra đời dựa trên sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại trong đó trực tiếp là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

 

           -Triết học cổ điển Đức, đặc biệt những “hạt nhân hợp lý” trong triết học của Hegel và Feuerbach, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hegel, C.Mác đã dựa vào chủ nghĩa duy vật của Feuerbach; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục những hạn chế của nó. Từ đó C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ.

 

           -Kinh tế chính trị học đặc biệt là của Adam Smith (A.Xmit) và David Ricardo (Đ. Ricácđô) không những làm nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà còn là nhân tố không thể thiếu được trong sự hình thành và phát triển triết học Mác. Việc nghiên cứu những vấn đề triết học về xã hội đã khiến C.Mác phải đi vào nghiên cứu kinh tế học và nhờ đó mới có thể đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử, đồng thời xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.

 

            -Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời sự phát triển những quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội của Mác.

 

-Tiền đề khoa học tự nhiên

 

               Triết học Mác - Lênin kế thừa những thành tựu của ba phát minh: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa. Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.

 

               Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.

 

* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác

 

       Nhân tố chủ quan đó là trí tuệ uyên bác, hoạt động thực tiễn không biết mệt mỏi trên lập trường giai cấp công nhân và tình cảm đặc biệt của C.Mác, Ph.Ăngghen đối với nhân dân lao động trên thế giới.

 

b.Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác

 

            *Giai đoạn (1841-1844): thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản

 

            -Các Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Trier, Vương quốc Phổ. Cuộc đời sinh viên của Mác đã được những phẩm chất đạo đức - tinh thần nhân đạo định hướng, không ngừng được bồi dưỡng và phát triển đưa ông đến với chủ nghĩa dân chủ cách mạng và quan điểm vô thần.

 

-Tìm hiểu triết học của Hêghen và Phoiơbắc

 

-Tham gia các cuộc tranh luận ở, nhất là ở Câu lạc bộ tiến sĩ

 

-Viết bài báo Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ kiểm duyệt của Phổ (1842)

 

            -Năm 1842, tham gia và trở thành linh hồn của tờ báo Sông Ranh (cơ quan ngôn luận chủ yếu của phái dân chủ- cách mạng)

 

            -Viết tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch sử phong phú cùng với những ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan của C.Mác.

 

             -Cuối tháng 10/1843 C.Mác sang Pari. Ở đây, không khí chính trị sục sôi và sự tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của ông sang lập trường của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Theo C.Mác, triết học đã tìm thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, đồng thời giai cấp vô sản cũng tìm thấy triết học là vũ khí tinh thLn của mình2. Tư tưởng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là điểm xuất phát của chủ nghĩa xã hội khoa học. Như vậy, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa xã hội khoa học.

 

         Cùng thời gian này, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình thành một cách độc lập với Mác. Ph.Ăngghen sinh ngày 28/11/1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở Bácmen thuộc tỉnh Ranh.

 

        - Ph.Ăngghen căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại và nghiên cứu triết học từ rất sớm. Ông giao thiệp rộng với nhóm Hegel trẻ và tháng 3/1842 đã cho xuất bản cuốn Sêlinh và việc chúa truyền, trong đó chỉ trích nghiêm khắc những quan niệm thần bí, phản động của Sêlinh.

 

        - Từ mùa thu năm 1842, ông tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, đặc biệt là trực tiếp tham gia vào phong trào công nhân (phong trào Hiến chương) đã dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.

 

         - Năm 1844, Niên giám Pháp - Đức đăng các tác phẩm Phác thảo góp phần phê phán kinh tế chính trị học, Tình cảnh nước Anh, Tômát Cáclây, Quá khứ và hiện tại của Ph.Ăngghen. Ông đã đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lập trường của chủ nghĩa xã hội để phê phán kinh tế chính trị học của Adam Smith và Ricardo, vạch trần quan điểm chính trị phản động của Thomas Carlyle. Đến đây, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản ở ông cũng đã hoàn thành.

 

          -Tháng 8/1844, Ph.Ăngghen qua Paris gặp Mác. Sự thiên tài về trí tuệ, sự chung ý tưởng và tình bạn vĩ đại của hai người gắn với sự ra đời và phát triển thế thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản. Từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng và tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.

     Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

 

       Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen sau khi tự giải phóng mình khỏi hệ thống triết học cũ đã bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết học mới.

 

        -Năm 1844, C.Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844. Ông trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết học của mình thông qua việc tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen, kinh tế chính trị học cổ điển của Anh và chỉ ra mặt tích cực trong phép biện chứng của triết học Hêghen.

 

        -Năm 1845, hai ông viết Gia đình thần thánh. Tác phẩm chứa đựng “quan niệm hầu như hoàn thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản”.

 

        -Mùa xuân năm 1845, tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc ra đời. Tác phẩm chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã hội và nhiệm vụ của triết học Mác là “cải tạo thế giới”, phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy vật trước kia và bác bỏ chủ nghĩa duy tâm đồng thời vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người.

 

        -Cuối năm 1845 đầu năm 1846, tác phẩm Hệ tư tưởng Đức trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống - xem xét lịch sử xã hội xuất phát từ con người hiện thực, chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của xã hội, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển nền sản xuất vật chất của xã hội. Cùng với Hệ tư tưởng Đức, triết học Mác đã đi tới nhận thức đời sống xã hội bằng một hệ thống các quan điểm lý luận thực sự khoa học, đã hình thành, tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của hai ông.

 

        -Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học

 

        -Năm 1848, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế, chính trị, xã hội.

 

          Như vậy, chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lí luận nền tảng của ba bộ phận hợp thành và sẽ được Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt cuộc đời của hai ông trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân và khái quát những thành tựu khoa học của nhân loại.

 

           *Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lí luận triết học (1848 - 1895)

 

          - Học thuyết Mác tiếp tục được bổ sung và phát triển trong sự gắn bó mật thiết với thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăngghen vừa là đại biểu tư tưởng vừa là lãnh tụ thiên tài. Hai ông đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được phát triển.

 

          - Tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp và Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ đã tổng kết cuộc cách mạng Pháp (1848 - 1849). Các năm sau, Mác đã tập trung viết tác phẩm khoa học chủ yếu của mình là bộ Tư bản (tập 1 xuất bản 9/1867), rồi viết Góp phần phê phán kinh tế chính trị học (1859).

          - Năm 1871, Mác viết Nội chiến ở Pháp, phân tích sâu sắc kinh nghiệm của Công xã

Pari.

 

             -Năm 1875, Mác viết tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô ta, xây dựng con đường và mô hình của xã hội tương lai- xã hội cộng sản chủ nghĩa.

 

             -Với các tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Chống Đuyrinh, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884) và Lútvích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886)... Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù của chủ nghĩa Mác và bằng việc khái quát những thành tựu của khoa học. Đồng thời, ông đã xây dựng triết học Mác dưới dạng một hệ thống lý luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh.

 

             -Sau khi Mác qua đời (14/03/1883), Ph.Ăngghen đã hoàn chỉnh và xuất bản hai quyển còn lại trong bộ Tư bản của Mác (trọn bộ ba quyển).

 

         Những ý kiến bổ sung, giải thích của Ph.Ăngghen đối với một số luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác.

 

c.Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện

 

        -C.Mác và Ph.Ăngghen, đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm, sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

 

        -C.Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học.

 

        -C.Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng.

 

        + Ở triết học Mác, tính đảng và tính khoa học thống nhất hữu cơ với nhau. Triết học Mác mang tính đảng là triết học duy vật biện chứng đồng thời mang bản chất khoa học và cách mạng.

 

        + Triết học Mác ra đời cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn biến triết học thành “khoa học của mọi khoa học”, xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể.

 

        + Một trong những đặc trưng nổi bật của triết học Mác là tính sáng tạo. Triết học Mác là một hệ thống mở luôn luôn được bổ sung, phát triển bởi những thành tựu khoa học và thực tiễn. Đặc biệt, chúng ta cần phải vận dụng triết học Mác một cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

 

        + Triết học Mác mang trong mình tính nhân đạo cộng sản. Đó chính là lý luận khoa học xuất phát từ con người, vì mục tiêu giải phóng con người mà trước hết là giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát triển tự do, toàn diện con người.

d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác

V.I.Lênin và những người cộng sản đã kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đáp ứng đòi hỏi khách quan của thời đại mới.

 

*Hoàn cảnh lịch sử V.I.Lênin phát triển Triết học Mác

       - Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tình hình kinh tế- xã hội trên thế giới có nhiều thay

đổi:

 

       - Chủ nghĩa tư bản chuyển biến thành chủ nghĩa đế quốc; giai cấp tư sản ngày càng

bộc lộ rõ tính chất phản động của mình; sự dịch chuyển của trung tâm cách mạng thế giới vào nước Nga và sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

 

       - Những phát minh lớn trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đã làm đảo lộn quan niệm về thế giới của vật lý học cổ điển. Lợi dụng tình hình đó, những người theo chủ nghĩa duy tâm, cơ hội, xét lại... đã tấn công lại chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác.

 

       - Giai cấp tư sản đã tiến hành tấn công điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, nhằm chống lại các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ muốn thay thế chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác bằng thức lý luận triết chung, pha trộn của thế giới quan duy tâm, tôn giáo.

 

         Vì vậy, việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới đã được V.I.Lênin xác định là những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

 

      V.I.Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và triết học Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

 

       -    V.I.Lênin sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 tại thành phố Ximbiếcxcơ của Nga trong một gia đình có sáu anh chị em và họ đều trở thành những người cách mạng. V.I.Lênin quan tâm nghiên cứu và tuyên truyền nhiệt thành cho những tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác.

 

       -    V.I.Lênin đã vượt qua mọi khó khăn cả về vật chất và tinh thần, cống hiến sức lực tâm huyết và trí tuệ cho Đảng, cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Ông đã thể hiện rõ là một lãnh tụ, một nhà lý luận thiên tài, nhà tổ chức và người lãnh đạo kiệt xuất của giai cấp vô sản.

 

          Thời kỳ 1893 - 1907, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác và chuẩn bị thành lập đảng mácxít ở Nga hướng tới cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.

 

 

         Từ những năm 80 của thế kỷ XIX, V.I.Lênin đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga đồng thời đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, phương pháp siêu hình và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Đặc biệt, ông phát triển nhiều quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội.

 

         V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp trước khi có chính quyền, đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của đấu tranh chính trị.

         Từ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

lập trường; chủ nghĩa Mác bị tấn công từ nhiều phía và có xu hướng ngả sang chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo; chủ nghĩa Makhơ muốn làm sống lại triết học duy tâm, chống chủ nghĩa duy vật biện chứng, phá hoại tư tưởng cách mạng, tước bỏ vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Trước tình hình đó, V.I.Lênin tiến hành đấu tranh, bảo vệ, phát triển triết học Mác:

 

         - Năm 1908, tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908). V.I.Lênin đã khái quát thành tựu mới nhất của KHTN, phê phán triết học duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại, vạch mặt những kẻ chống lại triết học mácxít, xây dựng quan niệm mới về

vật chất, con đường biện chứng của quá trình nhận thức, vai trò của thực tiễn đối với chân lý.

 

         - V.I.Lênin đã chỉ rõ sai lầm của những người theo chủ nghĩa Makhơ, khi họ phủ nhận vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự phát triển xã hội. Ông kịch liệt phê phán phái Makhơ đồng nhất quy luật sinh học với quy luật lịch sử, lấy quy luật sinh học giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội.

 

         - Giai đoạn 1914- 1916, V.I.Lênin viết Bút ký triết học (1914 - 1916). Trong tác phẩm này, V.I.Lênin quan tâm nghiên cứu, phát triển phép biện chứng duy vật. Ông bảo vệ, phát triển nhiều vấn đề quan trọng: làm sáng tỏ quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tính đảng của hệ tư tưởng, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển của lịch sử.

 

         - Năm 1913, V.I.Lênin viết Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Ông đã: phân tích chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản; phát triển sáng tạo mối quan hệ giữa quy luật khách quan của xã hội với hoạt động có ý thức của con người; về vai trò của cá nhân và quần chúng nhân dân; chỉ ra khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một số nước riêng lẻ không phải ở trình độ phát triển cao về kinh tế; về nhiều hình thức của cách mạng xã hội chủ nghĩa... Theo ông, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước là bộ phận cấu thành của cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới. Vì vậy, ông luôn đòi hỏi sự thống nhất, đoàn kết trong phong trào cộng sản thế giới.

 

         -Năm 1917, V.I. Lênin viết Nhà nước và cách mạng. Ông đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc bản chất của nhà nước, về tính tất yếu đập tan nhà nước tư sản, thay thế bằng nhà nước chuyên chính vô sản, về nhà nước trong thời kỳ quá độ. Ông nhấn mạnh tư tưởng chủ yếu của Mác về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản. Đồng thời phân tích chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hai giai đoạn trong sự phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa, về vai trò của đảng cộng sản trong xây dựng xã hội mới.

 

         - Từ 1917 - 1924 là thời kỳ Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ quá độ

từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh chống lại sự can thiệp của 14 nước đế quốc, bọn phản động trong nội chiến. V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh chống mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác.

-Trong tác phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã vạch ra đường lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga, phân tích nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, đặt ra nhiệm vụ phải tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nước Nga.

 

        V.I.Lênin làm rõ sự khác biệt căn bản về nhiệm vụ chủ yếu của quần chúng lao động trong cách mạng tư sản và cách mạng vô sản. Theo ông, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chuyên chính đối với bọn bóc lột là một tất yếu.

 

        - Trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Causky, V.I.Lênin vạch trần sự phản bội của Causky, phê phán Causky đã phủ nhận chuyên chính vô sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa; chỉ rõ sự khác biệt căn bản giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản, chỉ rõ vai trò to lớn của Nhà nước Xô viết trong bảo vệ và xây dựng nước Nga Xô viết.

 

        - Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, lần đầu tiên V.I.Lênin đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp, chỉ ra những đặc trưng chung cơ bản, phổ biến nhất của giai cấp - cơ sở khoa học để nhận biết, phân rõ các giai cấp khác nhau trong lịch sử xã hội có giai cấp. Người chỉ rõ: xét đến cùng năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất bảo đảm cho thắng lợi của chế độ xã hội mới.

 

         - Trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ "tả khuynh" trong phong trào cộng sản, V.I.Lênin làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng, vai trò lãnh đạo của Đảng trong thiết lập chuyên chính vô sản và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Ông luận chứng cho tính tất yếu, nội dung của chuyên chính vô sản đối với toàn bộ thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, lý luận về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng.

 

        -Trong tác phẩm Luận bàn về Công đoàn, V.I.Lênin cũng đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lôgíc biện chứng, khái quát những nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật như: nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc phát triển…

 

        -Trong tình hình mới, V.I.Lênin viết tác phẩm Chính sách kinh tế mới. Ông phát triển những tư tưởng của Mác, Ăngghen về thời kỳ quá độ, đặc biệt là chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp, vấn đề liên minh công nông.

 

        -Trong tác phẩm Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu. Ông nêu cơ sở khoa học cho nhiệm vụ phát triển triết học Mác, về phương hướng, mục tiêu, biện pháp công tác của đảng cộng sản trên mặt trận triết học. Ông chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của việc giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và chủ nghĩa vô thần khoa học.

        Như vậy, chủ nghĩa Lênin không phải là “sự giải thích” chủ nghĩa Mác mà là sự khái quát lý luận về thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là sự phát triển duy nhất đúng đắn và triệt để chủ nghĩa Mác, trong đó có triết học trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. Chính vì thế, giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và triết học Mác - Lênin là tên gọi chung cho cả hai giai đoạn.

        * Thời kỳ từ 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các Đảng Cộng sản và công nhân bổ sung, phát triển

 

        Từ sau khi V.I.Lênin mất đến nay, triết học Mác- Lênin luôn được bổ sung và phát triển để phù hợp với hoàn cảnh mới, nhất là các về chủ nghĩa duy vật lịch sử như: mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại; về nhà nước xã hội chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những mâu thuẫn của thời đại...

        Ở các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, triết học Mác – Lênin ngày càng thâm nhập sâu rộng trong quần chúng nhân dân và thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

        Tuy nhiên, quá trình phát triển triết học Mác - Lênin cũng gặp không ít khó khăn do những sai lầm trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội mang tính chất tập trung quan liêu, bệnh chủ quan, duy ý chí, quan niệm giản đơn về quan hệ giữa triết học và chính trị... Ngược lại, sự lạc hậu về lý luận đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.

        Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và sự biến đổi nhanh chóng của kinh tế - xã hội đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề cần giải đáp. Điều đó đòi hỏi các Đảng cộng sản phải vận dụng thế giới quan, phương pháp luận mácxít để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, định ra đường lối, chiến lược, sách lược phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

        Sự đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác - Lênin càng cấp bách hơn bao giờ hết nên đòi hỏi các Đảng cộng sản càng phải nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của nó.

        Trong quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đồng thời có đóng góp quan trọng vào sự phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện mới.

        Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bằng tư duy biện chứng, phân tích sâu sắc tình hình cách mạng Việt Nam, trong Chính cương vắn tắt, Luận cương năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt định ra đường lối lãnh đạo nhân dân làm “cách mạng tư sản dân quyền”, rồi tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Những thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, đánh bại thực dân Pháp 1954, đế quốc Mỹ 1975 đã khẳng định tính đúng đắn, khoa học, sự đóng góp, làm phong phú lý luận Mác - Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, đường lối thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược - xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc ở Miền Nam sau năm 1954 là một đóng góp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển triết học Mác - Lênin.

        Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm rõ thêm lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ dài và tồn tại nhiều mâu thuẫn xã hội. Đó cũng là những đóng góp quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển kho tàng lý luận Mác - Lênin trong đó có triết học.

        Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có biến động nhanh chóng và phức tạp. Đặc biệt, các thế lực thù địch đang ra sức chống phá chủ nghĩa xã hội, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam nên việc đấu tranh bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử mới là vấn đề cấp bách góp vào thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

        Như vậy, không thể đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu xa rời lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặt khác, việc bổ sung, phát triển triết học Mác - Lênin hiện nay chỉ có thể thực hiện được thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo phương pháp biện chứng khoa học, tuân thủ theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng cơ hội, khắc phục bệnh giáo điều, duy ý chí, bảo vệ và phát triển triết học mácxít; trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học tiếp tục khám phá thế giới, không ngừng làm phong phú tri thức của con người.

Charge your account to get a detailed instruction for the assignment