Tổng hợp các lý thuyết, kiến thức trọng tâm của môn kinh tế quốc tế
Chương 1: Nền kinh tế thế giới
1. Khái niệm và nội dung của nền kinh tế thế giới
3. Những xu thế vận động chủ yếu
Chương 2: Lý thuyết thương mại quốc tế
2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
4. Lý thuyết tân cổ điển (H – O)
Chương 3: Chính sách thương mại quốc tế
1. Các công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế
1.4. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER)
1.5. Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
2. Hai xu hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế
Chương 4: Di chuyển quốc tế các nguồn lực
Chương 5,6,7: Cán cân thanh toán và thị trường tiền tệ quốc tế
Chương 8: Hội nhập kinh tế quốc tế
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng.
● Là sự chuyên môn hóa của các quốc gia có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh đối với công việc ấy.
● Các chủ thể kinh tế quốc tế trong nền kinh tế thế giới là những người đại diện cho nên kinh tế thế giới và là nơi phát sinh ra những quan hệ kinh tế quốc tế. Có 3 thực thể kinh tế với các cấp độ khác nhau.
● Các nền kinh tế các quốc gia độc lập trên thế giới (kể cả các vùng lãnh thổ). Quan hệ giữa các chủ thể này được đảm bảo bằng các hiệp định quốc tế ký kết theo những điều khoản của công pháp quốc tế.
● Các chủ thể kinh tế ở cấp độ thấp hơn phạm vi quốc gia (doanh nghiệp, tập đoàn, xí nghiệp, ….). Các chủ thể này tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế dựa trên những hợp đồng thương mại hoặc đầu tư được thỏa thuận giữa các bên trong khuôn khổ của những hiệp định ký kết giữa các chủ thể nhà nước
● Các chủ thể kinh tế ở cấp độ cao hơn phạm vi quốc gia (tổ chức quốc tế, công ty đa quốc gia hoạt động với tư cách là những thực thể độc lập có địa vị pháp lý rộng hơn địa vị pháp lý của chủ thể quốc gia). VD: liên hợp quốc, IMF – quỹ tiền tệ quốc tế, WB – ngân hàng thế giới, …
● Chủ thể đặc biệt: các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia và công ty siêu quốc gia.
● Các quan hệ kinh tế quốc tế: là bộ phận cốt lõi của nền kinh tế, kết quả tất yếu của sự tác động qua lại của các chủ thể kinh tế quốc tế.
● Các quan hệ về di chuyển quốc tế của hàng hóa và dịch vụ (thương mại quốc tế): là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa vật chất hoặc hàng hóa phi vật chất) giữa các quốc gia
● Các quan hệ về di chuyển quốc tế về vốn (đầu tư quốc tế): là việc đưa các nguồn vốn từ nước này sang nước khác để thực hiện các hoạt động đầu tư (trực tiếp và gián tiếp)
● Các quan hệ về di chuyển quốc tế của lao động (di cư lao động quốc tế): là hoạt động xuất – nhập khẩu lao động để nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu về lao động giữa các quốc gia
● Các quan hệ về di chuyển quốc tế của các phương tiện tiền tệ (tài chính tiền tệ quốc tế): là việc di chuyển các loại tiền mặt, các kim loại quý, các giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu, ….) giữa các quốc gia nhằm phục vụ hoạt động lưu thông tiền tệ, hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán cũng như hoạt động đầu tư.
● Nền kinh tế thế giới đang bước vào thiên niên kỷ thứ 3 với những đổi mới trong tốc độ tăng trưởng trong sự thay đổi cơ cấu và đặc biệt là sự sống động trong các quan hệ kinh tế quốc tế:
● Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, các khu vực, giữa các nhóm nước và giữa các thời kỳ.
● Thương mại quốc tế tiếp tục gia tăng thể hiện xu hướng tự do hóa thương mại trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, nhưng sự gia tăng thương mại không đồng đều giữa các nước sẽ dẫn đến thặng dư thương mại ở một số nước và thâm hụt thương mại ở một số nước
● Đầu tư quốc tế trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng: sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu chủ đầu tư, cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng như tính đa phương và đa chiều của hoạt động đầu tư quốc tế
● Thị trường tài chính toàn cầu phát triển
● Bên cạnh quá trình phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái đang tiếp tục đặt ra ngày càng gay gắt: thất nghiệp, đói nghèo, bệnh dịch,…
● Trong các hoạt động kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn đồng thời quá trình hợp tác cùng diễn ra ngày càng phong phú hơn, ở những cấp độ khác nhau, rộng và sâu hơn
● Các trung tâm kinh tế và cường quốc kinh tế mới được hình thành và phát triển
● Trong những năm gần đây, chiến tranh sự bất ổn ở các quốc gia (Syria, Trung Đông) thường xuyên xảy ra xung đột vũ trang
● Nền kinh tế đang chuyển từ trật tự cũ sang trật tự mới:
+ Ba liên minh kinh tế lớn chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế (EU – liên minh châu Âu, NAFTA, APEC – khối mậu dịch tự do)
+ Các vương quốc mới nổi (Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, …)
+ Hình thành trật tự thế giới mới: các liên minh kinh tế khu vực, các thị trường kinh tế lớn -> vai trò quan trọng trong việc chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế, phân hóa giàu nghèo rõ hơn
● Xu thế thứ nhất: sự phát triển mang tính bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
● Phản ánh động lực của sự phát triển
● Xu thế thứ hai: quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa diễn ra ở mọi phạm vi quốc tế khác nhau. Tác động mạnh mẽ vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia, khu vực nói riêng và thế giới nói chung
● Trạng thái của sự phát triển
● Xu thế thứ ba: chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác, tạo sự ổn định cho sự phát triển với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát triển kinh tế
● Phương thức của sự phát triển
● Xu thế thứ tư: sự phát triển của vòng cung châu Á – Thái Bình Dương đang làm cho trung tâm của nền kinh tế chuyển dịch
- Khái niệm:
● Chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết thương mại cho rằng để gia tăng của cải của một quốc gia, một nước cần duy trì cán cân thương mại thặng dư thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời hạn chế tối đa nhập khẩu
- Nội dung cơ bản:
● Coi vàng bạc là thước đo sự giàu có của quốc gia
● Đề cao thương mại, đặc biệt là ngoại thương (xuất siêu), nhấn mạnh vai trò của nhà nước
● Thương mại quốc tế là trò chơi có tổng lợi ích bằng 0
● Mặc dù có nhiều mặt hạn chế, nhưng những quan điểm trọng thương vẫn có giá trị nhất định, và vẫn có ảnh hưởng đến chính sách thương mại của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay.
- Quan điểm của Adam Smith:
● Thị trường chứ không phải là chính phủ mới là yếu tố quy định quy mô, cơ cấu và các luồng thương mại
● Thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc gia
● Chính phủ nên thực hiện chính sách không can thiệp trong hoạt động thương mại quốc tế nói riêng, và các hoạt động kinh tế nói chung.
- Nội dung cơ bản:
● Cơ sở thương mại quốc tế là lợi thế tuyệt đối
● Lợi thế tuyệt đối tồn tại dựa trên chi phí sản xuất thấp hơn
● Một quốc gia được coi là có lợi thế tuyệt đối về một sản phẩm nếu có thể sản xuất và bán sản phẩm đó với chi phí thấp hơn so với bất kỳ quốc gia nào khác, hoặc là quốc gia duy nhất có thể sản xuất được sản phẩm đó.
● Mỗi nước nên chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa có lợi thế tuyệt đối và tiến hành trao đổi, từ đó cả hai bên đều có lợi.
- Ví dụ: Ta có bảng sau:
Sản phẩm/ h |
Việt Nam |
Nhật Bản |
● |
|
|
● |
|
|
Từ đó:
Giờ/ sản phẩm |
Việt Nam |
Nhật Bản |
Tivi |
1 |
1/3 |
Gạo |
1/4 |
½ |
● Vì chi phí sản xuất tivi của Nhật Bản là 1/3 nhỏ hơn của Việt Nam là 1
● Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối với sản phẩm tivi
● Vì chi phí sản xuất gạo của Việt Nam là 1/4 nhỏ hơn của Nhật Bản là 1/2
● Việt Nam có lợi thế tuyệt đối với sản phẩm gạo
● Theo lý thuyết về lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam nên tập chung sản xuất gạo để xuất khẩu và nhập khẩu tivi; Nhật Bản nên tập chung sản xuất tivi để xuất khẩu và nhập khẩu gạo
❖ Đại diện tiêu biểu: David Ricardo
- Nội dung chủ yếu:
● Lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) ra đời nhằm giải thích trường hợp phổ biến trong thương mại quốc tế: một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể tham gia trao đổi và nhận được lợi ích.
● Cơ sở của lợi thế so sánh là giá tương đối hoặc chi phí cơ hội
● Với cùng một hàng hóa, nước nào có chi phí cơ hội thấp hơn thì có lợi thế so sánh về sản xuất hàng hóa đó.
● Chi phí cơ hội của một hàng hóa là số lượng hàng hóa khác phải hy sinh để có thêm một đơn vị hàng hóa đó
● Mỗi nước nên chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa có lợi thế tương đối và tiến hành trao đổi, từ đó cả hai bên đều có lợi.
● Khi mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh với các quốc gia khác thì mức sản lượng và tiêu dùng của toàn thế giới sẽ tăng lên và tất cả các quốc gia đều trở nên sung túc hơn.
- Ví dụ:
Sản phẩm/ h |
Việt Nam |
Nhật Bản |
Radio |
|
|
● |
|
|
Giờ/ sản phẩm |
Việt Nam |
Nhật Bản |
Radio |
1R=2G |
1R= 4/3 G |
Gạo |
1G=1/2 R |
1G = ¾ R |
● Chi phí cơ hội để sản xuất radio của Việt Nam lớn hơn chi phí cơ hội để sản xuất radio của Nhật Bản
● Nhật Bản có lợi thế so sánh trong sản xuất radio
● Chi phí cơ hội để sản xuất gạo của Việt Nam nhỏ hơn chi phí cơ hội để sản xuất gạo của Nhật Bản
● Việt Nam có lợi thế so sánh trong sản xuất gạo
● Để thương mại diễn ra giữa hai nước thig tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm trong giới hạn 2 tỷ lệ trao đổi nội địa
¾ R ≥ 1G ≥ ½ R hoặc 2G ≥ 1R ≥ 4/3 G
- Hoàn cảnh ra đời
● Đầu thế kỉ XX hai nhà kinh tế học Thụy Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã đề xuất quan điểm rằng chính mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và hàm lượng các yếu tố sản xuất sử dụng để làm ra các mặt hàng khác nhau mới là những nhân tố quan trọng quy định thương mại quốc tế
● Đây được đánh giá là một trong các lý thuyết mạnh trong thương mại quốc tế
- Các giả định của lý thuyết
● Thế giới chỉ gồm 2 quốc gia và 2 mặt hàng
● Quá trình sản xuất sử dụng 2 yếu tố đầu vào vốn và lao động
● Chuyên môn hóa sản xuất không hoàn toàn
● Công nghệ thị hiếu 2 quốc gia tương đồng
● Thương mại là hoàn toàn tự do
● Chi phí vận chuyển bằng không
● Cạnh tranh hoàn hảo
- Nội dung của lý thuyết
Lx và Ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y; còn Kx và Ky là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y
● Nội dung của định lý H – O: một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất dồi dào tương đối và nhập khẩu những mặt hàng có yếu tố sản xuất khan hiếm tương đối.
● Định lý cân bằng giá cả yếu tố sản xuất: thương mại tự do không chỉ làm cân bằng giá cả hàng hóa mà còn làm cân bằng giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất giữa 2 quốc gia và nếu hai quốc gia đó tiếp tục sản xuất 2 mặt hàng thì thương mại sẽ cân bằng giá cả tuyệt đối của yếu tố sản xuất
● Định lý Stopher – Samuelson: nếu giá cả tương đối của mặt hàng nào đó tăng lên thì giá tương đối của yếu tố sản xuất được sử dụng nhiều tương đối sẽ tăng lên và giá tương đối của các yếu tố còn lại giảm xuống
- Đánh giá
● Ưu điểm: góp phần trả lời tác động của thương mại đối với phân phối lại thu nhập
● Đây được coi là một trong những lý thuyết mạnh trong giải thích các hoạt động thương mại quốc tế
● Hạn chế: trong phân tích thực nghiệm thì lý thuyết H – O gặp phải nghịch lý Leontief
+ Nội dung Leontief: khi leontief sử dụng bộ số liệu của thương mại Mỹ năm 1947 để kiểm định lí thuyết H – O. Thông qua kết quả thực nghiệm, Mỹ là quốc gia xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những mặt hàng nhiều vốn
+ Cách giải thích nghịch lý Leontief: cao hơn thế giới => công nhân Mỹ có năng xuất cao hơn công nhân thế giới => Mỹ xuất khẩu lao động
- Khái niệm:
● Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc và biện pháp cụ thể của Nhà nước để điều khiển và định hướng các hoạt động ngoại thương của mỗi quốc gia trong một thời kỳ nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
- Chức năng của chính sách thương mại quốc tế:
● Chủ yếu khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy mô tối ưu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế
● Đối ngoại: tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng buôn bán với nước ngoài thông qua đàm phán quốc tế để đạt được việc mở rộng thị trường hợp pháp cho các doanh nghiệp
● Đối nội: góp phần bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa, hạn chế cạnh tranh bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước
- Khái niệm:
● Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hóa tại biên giới khi hàng hóa đi từ lãnh thổ hải quan của một nước này sang lãnh thổ hải quan của một nước khác. Nói một cách khác, thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia hoặc hàng quá cảnh. Như vậy thuế quan bao gồm chủ yếu là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Ngoài ra còn có thuế với hàng quá cảnh.
- Phân loại: Thuế quan có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau
● Theo đối tượng:
+ Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Chính nội dung kinh tế thực tế này gây nên tác động của thuế nhập khẩu đối với hoạt động trao đổi thương mại quốc tế
+ Thuế xuất khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng xuất khẩu (bỏ qua)
+ Quá cảnh (bỏ qua)
● Thuế nhập khẩu và xuất khẩu đều tác động tới giá cả hàng hóa có liên quan. Thế nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở hai điểm:
➔ Nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hóa bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước (chứ không phải ngược lại), hay nói cách khác, nó làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hóa có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế (điều này phù hợp với thực tiễn thương mại của các nước nhỏ)
➔ Ở nhiều nước phát triển, người ta không sử dụng thuế xuất khẩu, cho nên khi nói tới thuế quan tức là đã đồng nhất nó với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển người ta vẫn sử dụng phổ biến cả thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu, đặc biệt là để đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm tăng thêm lợi ích cho quốc giá.
● Theo mục đích:
➔ Thuế quan tài chính: mục đích là nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Mức đánh thuế này thường ở mức thấp
➔ Thuế bảo hộ: là loại thuế đánh cao vào hàng nhập khẩu, để làm cho giá bán hàng nhập khẩu tăng lên bằng hoặc cao hơn giá bán hàng cùng loại được sản xuất trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu
➔ Thuế trừng phạt: là loại thuế chính phủ áp dụng nhằm trừng phạt, hạn chế triệt để những hàng hóa ở nước khác xâm nhập vào nước mình
➔ Thuế chống bán phá giá
● Theo mức thuế:
➔ Mức thuế tối thiểu là mức thuế đánh vào hàng hóa có xuất xứ từ các bạn hàng có quan hệ bình thường với nhau
➔ Mức thuế tối đa mức thuế đánh vào hàng hóa có xuất xứ từ các bạn hàng có quan hệ nghịch thù hoặc chưa có quan hệ chính phủ tốt
➔ Mức thuế ưu đãi là mức thuế được áp dụng cho các nước trong khối cùng liên kết kinh tế và các nước có quan hệ thân thiện, đồng minh với nhau
● Theo cách tính:
➔ Tính theo số lượng: (Po là giá nhập khẩu; Ts là thuế tính theo đơn vị hàng hóa; Pt là giá cả hàng hóa sau khi nhập khẩu)
➔ Tính theo giá trị: (Po là giá nhập khẩu; Pt là giá cả hàng hóa sau khi nhập khẩu; t là tỷ lệ phần trăm đánh thuế vào hàng hóa)
➔ Thuế quan hỗn hợp: là thuế quan vừa tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị hàng hóa vừa cộng với mức thuế theo một đơn vị vật chất của hàng hóa
➔ Thuế quan là một công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc tế và là một phương tiện truyền thống để làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Không những thế thuế quan còn có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ mới được hình thành, chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới
- Tác động của thuế nhập khẩu
● Tích cực: tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
● Tiêu cực: tăng thiệt hại người tiêu dùng khi phải trả giá cao hơn để mua hàng nhập khẩu
● Hạn chế nhập khẩu vì cầu của người tiêu dùng đối với hàng hóa nhập khẩu giảm; tăng tổn thất ròng của xã hội (phần mất không tăng lên).
- Khái niệm:
● Hạn ngạch là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một hay một nhóm hàng hóa được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định, thường là một năm, thông qua hình thức cấp phép (Quota xuất – nhập khẩu). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn, còn quota xuất khẩu ít được sử dụng và nó cũng tương đương với biện pháp “hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
● Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới sự hạn chế về số lượng nhập khẩu, đồng thời gây ảnh hưởng tới giá nội địa của hàng hóa. Do mức cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn so với giá trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy, hạn ngạch nhập khẩu tác động tương đối giống với thuế nhập khẩu. Do hạn ngạch nhập khẩu, nên giá hàng hóa nội địa sẽ tăng lên và nó cho phép các nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn với điều kiện thương mại tự do.
● Hạn ngạch nhập khẩu cũng dẫn tới sự lãng phí nguồn lực của xã hội giống như đối với thuế nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất hay thay thế nhập khẩu, bảo hộ nền sản xuất nội địa. Đối với chính phủ và các nhà doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu (điều này lại khác với thuế nhập khẩu, vì nó phụ thuộc vào mức độ co giãn của quan hệ cung – cầu)
● Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào giá cả và làm thay đổi quan hệ cung – cầu thì hạn ngạch nhập khẩu hạn chế nguồn cung tức là thay đổi quan hệ cung – cầu trước rồi mới đến giá hàng hóa nhập khẩu giá hàng hóa nhập khẩu tăng
● Thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho nhà nước còn hạn ngạch nhập khẩu không đáng kể (qua phí hạn ngạch hoặc đấu giá)
● Hạn ngạch nhập khẩu mang tính chắc chắn hơn là thuế nhập khẩu, nên một số nhà sản xuất nội địa ưa thích nó hơn, nhưng người tiêu dùng lại bị thiệt thòi nhiều hơn, còn người được hưởng lợi nhiều nhất là nhà nhập khẩu chứ không phải là nhà nước. Trong thực tiễn, người ta thường quy định hạn ngạch nhập khẩu cho một số loại sản phẩm đặc biệt hay cho sản phẩm với thị trường đặc biệt. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và theo khoảng thời gian nhất định. Cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào WTO, việc sử dụng hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu dần dần bị xóa bỏ.
Charge your account to get a detailed instruction for the assignment