Lịch sử các học thuyết kinh tế

Ôn tập tổng hợp

Tài liệu bao gồm những nội dung cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu về lịch sử phát triển của khoa học kinh tế cho sinh viên. Đặc biệt là ý nghĩa của từng học thuyết trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam

Table of Contents
expand_more expand_less

Chương I: ÐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

I. Một số vấn đề chung :

II. Ðối tượng và phương pháp nghiên cứu

III. Chức năng và ý nghĩa của môn học.

Chương II: TƯ TƯỞNG KINH TẾ THỜI CỔ ÐẠI VÀ TRUNG CỔ

I. Hoàn cảnh, đặc điểm thời cổ đại

II. Các tư tưởng kinh tế của Hy Lạp cổ đại

III. Đặc điểm kinh tế Trung Quốc cổ đại

IV. Tư tưởng kinh tế Trung Quốc cổ đại

V. Các tư tưởng kinh tế thời Trung cổ

Chương III: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG

I. Hoàn cảnh ra đời, đặc điểm và những quan điểm chủ nghĩa trọng thương.

II. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương

III. Biểu hiện của chủ nghĩa trọng thương ở một số nước

1. Chủ nghĩa trọng thương tại Anh:

2. Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.

IV. Ðánh giá khái quát về chủ nghĩa trọng thương:

Chương IV: HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ÐIỂN

I. Hoàn cảnh ra đời và phương pháp luận

1. Hoàn cảnh

2. Đặc điểm phương pháp luận

II. Các lý thuyết kinh tế chủ yếu của petty (1623-1687)

1. Lý thuyết giá trị

2. Lý luận về tiền tệ (bàn về tiền tệ)

3. Lý luận vê thu nhập: tiền lương, lợi nhuận, địa tô

III. Adam Smith (1723-1790)

1. Lý thuyết về trật tự tự nhiên (lý thuyết “bàn tay vô hình”)

2.     Lý thuyết về phân công lao động

3.     Lý thuyết giá trị

4.     Lý thuyết tiền tệ

5.     Lý thuyết thu nhập (phân phối)

IV. David ricardo (1772-1823)

1.     Lý thuyết giá trị

2.     Lý thuyết tiền tệ

3.     Lý thuyết thu nhập

4.     Lý thuyết về tư bản và tái sản xuất

Chương V: HỌC THUYẾT KINH TẾ TIỂU TƯ SẢN

I.         Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm phương pháp luận

1.     Hoàn cảnh ra đời

2.     Đặc điểm phương pháp luận

II.   Các lý thuyết kinh tế chủ yếu

1.     J.Sismondi (1773-1842) Thụy Sĩ

Chương VI: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I.                Hoàn cảnh ra đời

II.              Những công lao và hạn chế

1.     Những công lao

2.     Những hạn chế

Chương VII: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI CỔ ÐIỂN MỚI

I.                Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm phương pháp luận

1. Hoàn cảnh ra đời

2. Đặc điểm lý luận

II. Các lý thuyết kinh tế chỷ yếu

1. Các lý thuyết kinh tế của trường phái giới hạn ở Áo

2.  Lý thuyết giá cả của A.Marshall(1542-1824)

3. Lý thuyết cân bằng tổng quát ( cân bằng thị trường)

4.  Lý thuyết giới hạn  ở Mỹ

Chương IX: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI KEYNES

I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm phương pháp luận.

1. Hoàn cảnh ra đời

2. Đặc điểm phương pháp luận

II. Các lý thuyết chủ yếu

1. Lý thuyết chung về việc làm.

2. Lý thuyết sự can thiệp của n2 vào nền kt

Chương X: CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO MỚI

I. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm phương pháp luận

1. Hoàn cảnh ra đời

2. Đặc điểm phương pháp luận.

II. Các lý thuyết kinh tế chủ yếu

1. Nền kt tt xh ở cộng hòa lien bang đức

2. Lý thuyết giới hạn k/n sản xuất

Chương XI: KINH TẾ HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI CHÍNH HIỆN ÐẠI

I. Hoàn cảnh xuất hiện, đặc điểm phương pháp luận .

II. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp .

Chương XII: CÁC LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

I. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế

1. Tăng trưởng kinh tế

2. Phát triển kinh tế

II. Các lý thuyết tăng trưởng và phat triển kinh tế

Chương XIII: LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I, Phân loại các quốc gia, tăng trưởng và phát triển kinh tế

1. đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển

2. tăng trưởng và phát triển kt

II.  1 số lí thuyết và tăng trưởng kt đối với nước đang phát triển

1. lý thuyết “ vòng luẩn quẩn và áo “ tuých” từ bên ngoài của Samuson

2. Lý thuyết mô hình nhị nguyên của A.Levis

3. Lí thuyết cất cánh W.Rostow ( nhà kinh tế học mĩ)

DETAILED INSTRUCTION

Chương I: ÐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

 

      I.          Một số vấn đề chung :

- Tư tưởng kinh tế: tư tưởng kinh tế của loài người được hình thành từ thời Cổ đại.

      cuối thế kỷ XV, nền sản xuất hàng hóa nhỏ chuyển sang sản xuất hàng hóa lớn, chủ nghĩa tư bản ra đời, các tư tuởng kinh tế được hình thành có tính hệ thống nên các học thuyết kinh tế ra đời.

- Học thuyết kinh tế.

      Học thuyết kinh tế của những người Trọng thương được coi là học thuyết kinh tế đầu tiên, nó được hình thành, phát triển ở nhiều nước Châu Âu như: Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha... Đó là những lý luận kinh tế đầu tiên nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và cũng là chính sách kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ tích lũy nguyên thủy của tư bản.

 

 

    II.          Ðối tượng và phương pháp nghiên cứu

- Ðối tượng môn học:

Đối tượng nghiên cứu của lịch sử các học thuyết kinh tế là hệ thống các quan điểm kinh tế của các giai cấp khác nhau tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong các giai đoạn lịch sử của xã hội loài người, nhằm chỉ ra những giá trị khoa học cũng như những hạn chế của các đại biểu, trường phái kinh tế học.

 

- Phương pháp nghiên cứu.

      Phương pháp duy vật biện chứng: Hệ thống các quan điểm kinh tế là kết quả của việc nghiên cứu, phản ánh hiện thực quan hệ sản xuất vào ý thức con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

      Phương pháp lịch sử: Quá trình nhận thức luôn có tính lịch sử, và mọi hoạtđộng của của ngườiđều dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của các thế hệ trước

      phương pháp phê phán, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tổng hợp nhằm chỉ rõ những thành tựu khoa học, hạn chế, cũng như sự kế thừa, phát triển các quan điểm kinh tế của các đại biểu, các trường phái kinh tế trong lịch sử

 

 

  III.          Chức năng và ý nghĩa của môn học.

- Chức năng

      Chức năng nhận thức: Chức năng này yêu cầu phải nghiên cứu, đánh giá các quan điểm kinh tế của các đại biểu, các trường phái kinh tế khác nhau theo quan điểm lịch sử cụ thế. Những quan điểm kinh tế phát sinh, phát triển gắn với điều kiện kinh tế - xã hội và lợi ích của những giai cấp nhất định, không có tư tưởng kinh tế phi giai cấp

      Chức năng phương pháp luận: Lịch sử các học thuyết kinh tế là môn học cóchức năng phương pháp luận

      Chức năng thực tiễn: Lịch sử các học thuyết kinh tế luận giải cơ sở hình thành, nội dung, chỉ rõ điểm thành công, hạn chế của các lý thuyết kinh tế.

 

- Ý nghĩa môn học.

      Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế nhằm vạch rõ quy luật về sự phát sinh, phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các quan điểm kinh tế của các trường phái kinh tế trong lịch sử.

 

 

Chương II: TƯ TƯỞNG KINH TẾ THỜI CỔ ÐẠI VÀ TRUNG CỔ

Mục tiêu: Nắm vững hoàn cảnh, đặc điểm, quan điểm của thời kỳ cổ đại và Trung cổ; Biết so sánh, lập luận các quan điểm kinh tế của các nhà kinh tế nổi bật; Biết vận dụng các quan điểm vào thực tiễn

 

      I.          Hoàn cảnh, đặc điểm thời cổ đại

-        Thời kỳ cổ đại:

      Lực lượng sản xuất đã phát triển nhất định

      Phân công lao động xã hội cũng phát triển

      Chế độ tư hữu ra đời

-        Những đặc điểm cơ bản của tư tưởng kinh tế thời cổ đại

      Thứ nhất, các tư tưởng cổ đại coi sự tồn tại của chế độ chiếm hữu nô lệ là hợp lý, coi sự phân chia xã hội thành giai cấp là đương nhiên, hợp tự nhiên.

      Thứ hai, các tư tưởng kinh tế cổ đại đánh giá cao vai trò của ngành nông nghiệp và kinh tế tự nhiên

      Thứ ba, các tư tưởng kinh tế cổ đại gắn với các tư tưởng về tôn giáo, đạo đức, pháp luật, nhà nước...

      Thứ tư, các nhà tư tưởng thời cổ đại còn đơn giản, mang tính chất ước lượng chứ không biết tính quy luật và các quy luật chi phối chúng như phân công lao động, giá trị trao đổi, tiền tệ, cung cầu, ngoại thương,...

 

 

    II.          Các tư tưởng kinh tế của Hy Lạp cổ đại

-        Đặc điểm kinh tế - xã hội

      Thứ nhất, chế độ công xã nguyên thủy tan rã --> chiếm hữu nô lệ, và dần phát triển mạnh vào thế kỷ X - VIII Tr.CN.

      Thứ hai, chế độ tư hữu được củng cố --> xuất hiện nhà nước chủ nô (thế kỷ VIII - VI Tr.CN).

      Thứ ba, kinh tế hàng hóa đã phát triển hơn, đã biết đúc tiền làm phương tiện trao đổi, cho vay nặng lãi--> - Trung tâm quan trọng của nền thương nghiệp, phá vỡ nền kinh tế tự nhiên, cơ sở cho chế độ chiếm hữu nô lệ

      Thứ tư, PCLĐ đạt được bước tiến nhất định, nghề thủ công hình thành và tách khỏi nông nghiệp.

      Thương nghiệp phát triển mạnh mẽ.

-        Các tư tưởng kinh tế chủ yếu của Hy Lạp cổ đại

Xenophon (430-345 Tr.CN): Là nhà triết học nổi tiếng, theo quan điểm duy tâm. Tác phẩm: “Phương châm trị gia”

      Đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng kinh tế của ông là phản ánh mong muốn của giai cấp chủ nô, sử dụng tốt quan hệ hàng – tiền.

      Các tư tưởng kinh tế của Xenophon

      Tư tưởng về phân công lao động: phân công lao động (PCLĐ) có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa các vùng. Giữa PCLĐ và quy mô thị trường có mối liên hệ chặt chẽ, ở những nơi trao đổi mạnh thì PCLĐ phát triển mạnh.

      Tư tưởng về giá trị: đây là mầm móng cho tư tưởng giá trị - ích lợi. Ông coi giá trị là một cái gì đó có ích cho con người và con người biết sử dụng được ích lợi đó. Ông giải thích khái niệm của cải theo quan điểm tiêu dùng. 

Ví dụ: cái sáo có giá trị với người biết thổi và ngược lại.

      Tư tưởng về tiền tệ: Theo ông vàng bạc là tiền có nhu cầu không giới hạn, việc tích trữ được nhiều sẽ trở nên giàu có  sử dụng nô lệ cho việc khai thác vàng. 

      Về cung – cầu, giá cả hàng hóa: Ông thấy được mối liên hệ giữa giá cả hàng hóa với cung cầu của nó.

      Về của cải: Của cải là những tư liệu tiêu dùng cá nhân. Muốn có nhiều của cải thì chủ nô chỉ thỏa mãn nhu cầu của nô lệ ở mức tối thiểu

Platon (427-347 Tr.CN)

    Là nhà triết học thuộc duy tâm.

    Là đại biểu cho giai cấp chủ nô.

    Đề cao vai trò của nhà nước.

    Tác phẩm Nhà Nước (380- 370Tr.CN) và "Luật pháp" (366- 347Tr.CN).

      Ông không coi nô lệ là công dân và không xếp nô lệ vào các tầng lớp dân cư của XH mới

      Platon giải thích mối liên hệ giữa pclđ, thương mại và tiền tệ với vai trò nổi bật của thương gia

Tuy nhiên ông sai lầm khi cho rằng việc phân công có cơ sở từ năng lực tự nhiên

      Ông bảo vệ chế độ công cộng về sở hữu ruộng đất, là sở hữu của nhà nước.  Ruộng đất được phân chia một cách bình quân cho nông dân.  Tuy nhiên nhà nước cấm nông dân bán các phần ruộng đất được chia

      Platon bảo vệ nề n kinh t ế CHNL, ông th ấy được tiền tệ không những có chức năng lưu thông và cất trữ mà còn là thước đo giá trị và tiền tệ thế giới.

Aristotes (384-322 Tr.CN)

    Ông là người đầu tiên nêu lên thuật ngữ kinh tế (oikonomia)  còn sơ khai, ấu trĩ, đơn sơ. 

    Ông đứng trên quan điểm triết học duy vật. 

    Vấn đề CHNL chiếm vị trí chủ yếu  nô lệ, xe cộ, súc vật là một, ca ngợi KTTN, bênh vực nông nghiệp, hạn chế thương mại.

      Một cống hiến quan trọng của Aristotes là tư tưởng về ba loại thương nghiệp và hai loại kinh doanh.

      Ông chia HĐKD thành 2 loại:

+ Thứ nhất, kinh tế, nhằm mục đích là giá trị sử dụng, trao đổi chỉ là phương tiện làm tăng them giá trị sử dụng. 

+ Thứ hai, sản xuất của cải vật chất, mục đích là làm giàu, có quan hệ với trao đổi T-H-T (đại thương nghiệp)  cần loại bỏ.

      Ông thấy được sự ngang bằng trong trao đổi nhưng không thấy được cơ sở của sự ngang bằng đó.

      Ông cố gắng giải thích sự xuất hiện của tiền tệ là do khó khăn trong trao đổi và quan hệ thị trường ngày càng mở rộng.

 

 

  III.          Đặc điểm kinh tế Trung Quốc cổ đại

-        Phân công lao động xã hội

-        Quan hệ sản xuất nhà nước -> Quan hệ chiếm hữu nô lệ

-        Về mặt tư tưởng thì các tư tưởng kinh tế Trung Quốc thời kì cổ đại đã trưởng thành từ rất sớm. Các cuộc tranh luận và những vấn đề kinh tế đã nổ ra như quan hệ giữa chế độ nô lệ và công xã, kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa…

 

 

  IV.          Tư tưởng kinh tế Trung Quốc cổ đại

-        Tư tưởng kinh tế của phái Khổng học: Ông là một nhà giáo lớn với nhiều học trò rất nổi tiếng như: Tử Cống, Tử Lộ, Tử Du…Ông có nhiều quan điểm kinh tế có ý nghĩa thực tiễn

-        Quan điểm kinh tế của Lão Tử: Đây là trào lưu tư tưởng kinh tế gắn bó với giai cấp chủ nô và nông dân giàu có

-        “Quản tử luận”: Luận chính kinh tế tập thể “quản tử luận” ra đời thời kỳ chiếm hữu nô lệ.

 

 

    V.          Các tư tưởng kinh tế thời Trung cổ

-        Hoàn cảnh xuất hiện tư tưởng kinh tế thời Trung cổ

      Chế độ phong kiến có đặc trưng chung là dựa trên cơ sở nền kinh tế lãnh địa, chế độ đại sở hữu ruộng đất của địa chủ và hình thức địa tô hiện vật.

      Về mặt kinh tế, mâu thuẫn giữa kinh tế địa chủ với kinh tế hàng hóa giản đơn

-        Đặc điểm tư tưởng kinh tế thời Trung cổ

      Thứ nhất, thời kỳ Trung cổ bảo vệ cho sự tồn tại của kinh tế tự nhiên, ít chú ý đến những vấn đề kinh tế hàng hóa như giá trị, tiền tệ.

      Thứ hai, các tư tưởng này được hình thành trong các bộ luật, những điều lệ, phường hội, pháp chế để bảo vệ lợi ích của vua chúa, địa chủ và những giáo sĩ, thợ thủ công thành thị.

      Thứ ba tư tưởng kinh tế Trung cổ chịu ảnh hưởng của thần học, đặc biệt là đạo cơ đốc có quyền lực rất cao

-        Những tư tưởng kinh tế chủ yếu thời Trung cổ

      Augustin Siant (354-450)

      “Chân lý Sali” (481-511), “Luật tạp chủng” (TK V – TK VI)

      Thomas d’Aquin (1225-1274)

      Tư tưởng kinh tế phong kiến Trung Quốc

      Tư tưởng kinh tế phong kiến Nhật Bản

      Tư tưởng kinh tế ở Ấn Độ

      Sự phát sinh tư tưởng CNXH không tưởng thời kỳ Trung cổ

 

 

Chương III: HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG

 

      I.          Hoàn cảnh ra đời, đặc điểm và những quan điểm chủ nghĩa trọng thương.

-        Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII và sau đó bị suy đồi. Có thể nói, nó ra đời trong bối cảnh hết sức thuận lợi khi mà phương thức sản xuất phong kiến bắt đầu tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời:

+ Về mặt lịch sử:

-        Đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương.

+ Về kinh tế:

-        Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất, tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực Do đó trong thời kỳ này thương nghiệp có vai trò rất to lớn. Nó đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.

+ Về mặt chính trị: 

-        Giai cấp tư sản lúc này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.

+ Về phương diện khoa học tự nhiên:

-        Điều đáng chú ý nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Crixtốp Côlông tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả năng làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây.

+ Về mặt tư tưởng, triết học:

-        Thời kỳ xuất hiện chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư tưởng tư sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…

 

    II.          Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương

 

      Chủ nghĩa trọng thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản (tầng lớp tư sản thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản. Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản đang hình thành.

-        Những tư tưởng kinh tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện tượng kinh tế.

-        Chủ nghĩa trọng thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của nhà nước đối với kinh tế.

-        Chủ nghĩa trọng thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên cứu lĩnh vực sản xuất.

-        Chủ nghĩa trọng thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở các nước khác nhau thì có những sắc thái dân tộc khác nhau. Ví dụ: ở Pháp chủ nghĩa trọng thương kỹ nghệ Pháp, ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim, ở Anh là chủ nghĩa trọng thương trọng thương mại.

Tóm lại, chủ nghĩa trọng thương ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận còn đơn giản thô sơ, nhằm thuyết minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của chính sách cương lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ trong điều kiện lịch sử lúc đó.

 

 

  III.          Biểu hiện của chủ nghĩa trọng thương ở một số nước

1.     Chủ nghĩa trọng thương tại Anh:

Chủ nghĩa trọng thương ở Anh chia làm 2 giai đoạn phát triển:

-        Giai đoạn 1 diễn ra trong thế kỉ XV-XVI gọi là giai đoạn học thuyết tiền tệ

-        Giai đoạn 2 diễn ra trong thế kỉ XVI gọi là giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.

      Giai đoạn học thuyết tiền tệ.

Đại biểu của học thuyết tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương thời kì này là William Stafford (1554-1612).

Quan điểm trọng thương của ông được trình bày trong tác phẩm “ Trình bày tóm tắt một vài lời kêu ca của đồng bào chúng ta” Trong tác phẩm này ông cho rằng nguyên nhân của sự đắt đỏ nằm ở vấn đề khối lượng tiền trong nền kinh tế. Vì thế, Nhà Nước cần phải có các biện pháp hành chính tác động vào quá trình lưu thông nhằm giữ khối lượng tiền khỏi bị hao hụt.

Nội dung chủ yếu là bảng cân đối tiền tệ: ngăn chặn không cho tiền chạy ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền vàng từ nước ngoài về.

Biện pháp:

-        Quy định tiền của nước Anh là vàng

-        Chống lại mọi hành vi đem tiền ra ngoài; các thương gia nước ngoài vào nước Anh đc khuyến khích mang tiền vào nhưng không đc mang tiền ra khỏi nước Anh mà phải mua hàng hóa mang ra.

-        Cấm nhập khẩu những sản phẩm không cần thiết.

-        Xâm chiếm, mở rộng thuộc địa để tìm kiếm thị trường xuất khẩu.

Đây chính là giai đoạn tích lũy tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, nhà nước sử dụng nhiều biện pháp hành chính để tối đa hóa tích lũy tiền tệ.

      Giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương mại.

Đại biểu của học thuyết về bảng cân đối thương mại là Thomas Mun (1571-1641) “Của cải là số sản phẩm dư thừa được sản xuất ra trong nước sau khi thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ được chuyển thành tiền ở thị trường nước ngoài”.

Nội dung chủ yếu:

-        Muốn giàu có phải tung tiền vào lưu thông, không được giữ tiền lại.

-        Phải biết xuất khẩu tiền nhằm mục đích buôn bán : “ Vàng đẻ ra thương mại, thương mại làm phát triển số tiền lên”.

-        Phải đẩy mạnh hoạt động thương mại: “ Đó là hòn đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của một quốc gia”, “ Không có phép lạ nào khác kiếm tiền ngoài thương mại”.

-        Trong thương mại “hàng năm, chúng ta cần giữ một nguyên tắc là bán cho người nước ngoài một số lượng lớn hơn khối lượng hàng hóa mua vào”.

-        Cần mở rộng cơ sở nguyên liệu cho công nghiệp bằng ngoại thương (nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài kết hợp với sức lao động trong nước nhằm phát triển sản xuất trong nước).

-        Thu hẹp nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng.

-        Đẩy mạnh cạnh tranh làm giá cả hàng hóa hạ xuống và nâng cao chất lượng hàng hóa nội địa.

-        Trong ngoại thương, cần mở rộng thị trường bằng việc biết bán hàng với giá cả thấp.

Đây là giai đoạn chủ nghĩa trọng thương phát triển nhất, có tính chất thực tiễn, thể hiện rõ ràng khát vọng của giai cấp tư sản Anh trong thời kì tích lũy tư bản

 

2.     Chủ nghĩa trọng thương ở Pháp.

      Quan điểm của nhà kinh tế Antoine de Montchretien (1575 – 1629).

Quan điểm:

Quan điểm mang màu sắc tiểu tư sản, thông cảm với quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân bị đè nặng dưới ách phong kiến, lên án sự xa hoa của giới quý tộc. Nông dân là chỗ dựa cho Nhà nước và Nhà nước phải quan tâm đến nông dân. Ông khẳng định “tài sản của đất nước không chỉ là tiền tệ mà còn bao gồm cả dân số đặc biệt dân số nông nghiệp”.

Ông cho rằng thương mại là mục đích chủ yếu của nhiều ngành nghề khác nhau. Thương nhân giữ vai trò liên kết người sản xuất với nhau.

Lợi nhuận thương nghiệp là chính đáng vì nó bù đắp sự rủi ro thua thiệt trong việc giao dịch mua bán.

Ông viết “hạnh phúc của người ta là ở sự giàu có mà sự giàu có là ở trong lao động” ông lên án sự lười biếng, coi đây là nguồn gốc của mọi tội lỗi và cho rằng nếu cần thiết sẽ cưỡng chế những người trong độ tuổi phải có việc làm.

Biện pháp:

Hàng hóa nước ngoài bị đẩy ra khỏi nước Pháp, tăng cường thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước và ngành thương mại, để nước Pháp có thể tự cung tự cấp. Các nhà sản xuất vải lanh Hà Lan phải kết thúc hoạt động ở Pháp, cấm nhập khẩu sản phẩm dệt của Anh. Thậm chí sách nước ngoài cũng bị cấm để ngăn chúng “đầu độc tinh thần chúng tôi”.

Cho thành lập rất nhiều công trường thủ công sản xuất các sản phẩm theo mẫu của nước ngoài nhằm tạo việc làm cho người dân lang thang thất nghiệp.

 

      Quan điểm của nhà kinh tế Jean Baptiste Colbert (1619 – 1683).

Quan điểm:

Là bộ trưởng tài chính nước Pháp, ông đã xây dựng được cho nước Pháp một chính sách kinh tế trong 100 năm. Chính sách kinh tế này phản ánh quan điểm trọng thương của ông trong khuôn khổ thúc đẩy sự phát triển của công trường thủ công tư bản nhưng lại không quan tâm đúng mức sự phát triển của nông nghiệp. Theo ông, ngoại thương có khả năng làm cho thần dân được sung túc và thỏa mãn được các nhu cầu của vua chúa. Sự vĩ đại và hùng cường của một quốc gia là do số lượng tiền tệ quyết định.

Biện pháp:

Cũng giống như Antoine de Montchretien, mục tiêu của Jean Baptiste Colbert cũng là xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp cho nước Pháp.

-        Ông khuyến khích hoạt động sản xuất thủ công nghiệp trong nước bằng các biện pháp trợ cấp và thuế quan, quy định một cách rõ ràng chất lượng và giá cả của sản phẩm sản xuất ra. Ông cho thành lập các ngành công nghiệp mới, khuyến khích và đãi ngộ các nhà khoa học, mời các nhà khoa học hoặc công nhân có tay nghề nước ngoài sang Pháp.

-        Đối với thương mại quốc tế, ông coi đây là con đường làm giàu cho đất nước vì thế đưa ra hàng loạt các đặc quyền cho các chủ xưởng sản xuất hàng xuất khẩu. Dưới sự giám sát của ông, hàng hóa muốn nhập khẩu vào nước Pháp phải chịu rất nhiều quy định về thuế quan và chất lượng hà khắc.

-        Ông cho cải thiện chất lượng đường giao thông và hệ thống kênh mương trên khắp nước Pháp nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho lưu thông hàng hóa phát triển thương mại.

-        Tuy nhiên, đối với ngành nông nghiệp, Colbert đã có nhiều sai lầm làm cho nông nghiệp bị sa sút như chính sách hạ giá hàng nông phẩm, bắt bán lúa gạo vs bất kì giá nào, khi đã mang ra thị trường thì không được chở về nhà.

 

  IV.          Ðánh giá khái quát về chủ nghĩa trọng thương:

-        Hạn chế

      Về mặt thực tiễn:

      Vai trò:

      Những chính sách kinh tế của chủ nghĩa trọng thương đưa ra như đẩy mạnh ngoại thương, trợ giúp tài chính tín dụng, bảo hộ thuế quan… tạo ra nguồn vốn ban đầu rất lớn cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình tích lũy tư bản, rút ngắn thời kì quá độ từ phong kiến lên tư bản.

      Hạn chế: không có hạn chế về mặt thực tiễn.

      Về mặt lí luận:

Vai trò:

      Trường phái trọng thương đã đặt nền móng cho các lí thuyết kinh tế sau này như: lí thuyết tiền tệ, lí thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.

      Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong chính sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được trích dẫn trong Kinh thánh:

      Thời kì phong kiến giải thích các hiện tượng kinh tế bằng thần bí tôn giáo còn CNTT đã dựa vào tài liệu lịch sử, sự kiện có thật để phân tích kinh tế;

      Thời kì phong kiến xem xét của cải nặng về mặt hiện vật còn CNTT đã xem xét của cải theo quan niệm giá trị;

      CNTT còn thấy đc mục đích của sản xuất và trao đổi hàng hóa là lợi nhuận.

Hạn chế:

      Những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương rất ít tính lí luận mà nặng tính kinh nghiệm;

      Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương mới chỉ dừng lại ở cái vỏ bên ngoài của các hiện tượng và quá trình kinh tế, chỉ dừng lại xem xét trong lĩnh vực lưu thông mà chưa quan tâm đến các hoạt động khác của nền kinh tế;

      Quan niệm về lợi nhuận thương nghiệp tạo ra trong lưu thông là do mua rẻ bán đắt là không chính xác;

      Đánh giá sai lầm vai trò vị trí của các ngành nghề kinh tế trong xã hội (coi trọng quá cao thương nghiệp, xem thường công nghiệp...);

      Chưa thấy được các quy luật kinh tế khách quan chi phối đời sống kinh tế.

 

 

 

Chương IV: HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ÐIỂN

 

      I.          Hoàn cảnh ra đời và phương pháp luận

1.     Hoàn cảnh

-        Trường phái này ra đời và giữa thế kỷ 17 ở nước Anh trong điều kiện:

Chủ nghĩa trọng thương đã tích lũy được một khối lượng tiền nhất định tạo điều kiện phát triển sản xuất. Do đó các công trường thủ công bắt đầu ra đời và phát triển do lợi nhuận do sản xuất lại có xu hướng ngày càng tăng còn lợi nhuận do thương nghiệp đem lại có xu hướng giảm và thị trường nước ngoài ngày càng hạn chế. Cần một lý luận mới xuất hiện

 

2.     Đặc điểm phương pháp luận

-        Lần đầu tiên họ chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất ( ở trọng nông là sx nông nghiệp)

-        Lần đầu tiên họ áp dụng phương pháp duy vật để nghiên cứu quá trình sản xuất nhưng họ cũng chỉ dừng lại ở duy vật máy móc siêu hình

-        Lần đầu tiên họ nghiên cứu một hệ thống các phạm trù các quy luật kinh tế khách quan hoạt động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa như: giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, lợi nhuận, lợi tức… các quy luật kinh tế khách quan: quy luật giá trị, cung-cầu, quy luật tiền tệ- lưu thông tiền tệ

-        Họ nhấn mạnh tư tưởng tự do kinh tế (tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh, tự do mậu dịch…) coi nền kinh tế là một hệ thống tự điều chỉnh theo các quy luật vốn có của nó (nhấn vào vai trò của thị trường, nhấn mạnh bàn tay vô hình)

-        Chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Theo họ, nhà nước không cần can thiệp vào kinh tế vì nền kinh tế vận động theo quy luật khách quan (nhấn mạnh bàn tay vô hình, xem nhẹ bàn tay hữu hình)

-        Do phương pháp luận duy vật siêu hình => do đó phương pháp luận của họ mang tính hai mặt. Một mặt đi sâu vào bản chất bên trong của các hiện tượng, các quy luật kinh tế để rút ra kết luận chi phối sự vận động của chúng. Nhưng mặt khác họ thường xa đà vào việc mô tả liệt kê có tính chất công thức những hiện tượng biểu hiện bề ngoài của xã hội và những kết luận của họ rút ra còn mang tính phi lịch sử

 

    II.          Các lý thuyết kinh tế chủ yếu của petty (1623-1687)

 

1.     Lý thuyết giá trị

Người đầu tiên đưa ra thuật ngữ giá trị-lao động (lao động quyết định giá trị), Mác đánh giá W.Petty là người đầu tiên đặt nền móng cho lý luận giá trị-lao động và là cha đẻ của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh

Trong tác phẩm: “bàn về thuế khóa và lệ phí”-1662 W.Petty nghiên cứu về giá cả, chia giá cả làm 2 loại giá chính trị và giá tự nhiên

-        Giá chính trị (giá thị trường) phụ thuộc vào yếu tố ngẫu nhiên, do đó khó xác định

-        Giá cả tự nhiên (tức giá trị) do thời gian lao động hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh hưởng đến mức hao phí đó

 Ông là người đầu tiên đã tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động. Ông kết luận rằng: “Số lượng lao động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hóa. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc

 Tuy nhiên trong lý thuyết này ông chưa phân biệt được phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả

Ông chỉ mới nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị trong lao động khai thác vàng và bạc. Ông so sánh giá lao động khai thác vàng và bạc với lao động khác, lao động khác chỉ tạo nên của cải ở mức độ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Theo ông, “giá trị hàng hóa chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như sự phản chiếu ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng của mặt trời vậy” => Đây là ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa trọng thương rất nặng.

            W.Petty lẫn lộn lao động với tư cách nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng => ông đồng nhất lao động trừu tượng với lao động cụ thể. Ông định đo giá trị = lao động + đất đai. “Lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải” Về phương diện của cải nói như vậy là đúng, chỉ rõ nguồn gốc của giá trị sử dụng. Nhưng sai lầm của ông đã coi 2 yếu tố xác định giá trị là lao động và tự nhiên.

 

2.     Lý luận về tiền tệ (bàn về tiền tệ)

            Ông cho rằng tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có. Vì thế đánh giá tiền tệ quá cao là một sai lầm (chống lại tư tưởng của CNTT)

            Ông nghiên cứu 2 thứ kim loại giữ vai trò tiền tệ là vàng và bạc. Quan hệ tỷ lệ giữa chúng (giá trị của chúng) là do số lượng lao động bỏ vào khai thác vàng và bạc quyết định

W.Petty đánh giá chế độ song bản vị giống như nhận xét của C.Marx sau này: “ Sự tồn tại 2 thước đo giá trị mâu thuẫn với thước đo giá trị”. Ông nêu ra luận điểm: “ giá cả tự nhiên của tiền tệ là do giá cả của tiền tệ có giá trị đầy đủ quyết định. C.Marx cho rằng: “bản thân các dấu hiệu của tiền tệ không phải là giá trị, chỉ có giá trị của vàng và bạc”

=> Ông là người đầu tiên trong chính trị kinh tế học nghiên cứu lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông, ông xác định (tính toán tùy tiện) số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông hàng hóa của nước Anh như sau: theo ông chỉ ần 1/10 số tiền cp trong 1 năm là hoàn toàn đủ cho nước Anh. Trong cuốn: “bàn về tiền tệ” ông tính toán cụ thể rằng nước Anh cần 1 số lượng tiền tệ để trả ½ địa tô hằng năm. ¼ tiền thuê nhà, toàn bộ số tiền chi tiêu hàng tuần của dân số và khoảng 25% giá trị xuất khẩu.

W.Petty là người trước Marx nghiên cứu sự ảnh hưởng của thời hạn thanh toán đối với lưu thông tiền tệ, thời hạn thanh toán càng dài thì số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông càng nhiều

W.Petty chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương về tính trữ tiền tệ có có hạn độ. Theo ông không cần thiết phải tăng số lượng tiền tệ đến mức vô tận, ông nhận xét 1 cách mỉa mai rằng: “nếu có thể dùng những mệnh lệnh của chính phủ để tăng gấp đôi của cải trong nước, thì tại sao từ rất lâu chính phủ Anh lại không ra những mệnh lệnh như thế” => ông bác bỏ mọi sự thao túng tiền tệ

 

3.     Lý luận vê thu nhập: tiền lương, lợi nhuận, địa tô

Về tiền lương: Ông lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận tiền lương. Ông xác định tiền lương là khoản giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu cho công nhân. Tiền lương không thể vượt quá mức tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiêu. Nếu tiền lương nhiều thì công nhân không muốn làm việc. Nói cách khác muốn cho công nhân làm việc thì biện pháp là hạ thấp tiền lương đến mức tổi thiểu. Ông kịch liệt phản đối nếu tăng tiền lương quá cao..

-        W.Petty cũng đã đi sâu phân tích mqh phụ thuộc lẫn nhau giữa tiền lương và giá cả lúa mì (giá trị sinh hoạt)

      Ông rút ra kết luận: “tiền lương tỷ lệ nghịch với giá cả lúa mì(giá trị sinh hoạt)” khác với K.Marx: “Tiền lương tỷ lệ thuận với sức lao động”

Tuy có những sai lầm song W.Petty đã nêu được cơ sở khoa học của tiền lương là giá trị của các tư liệu sinh hoạt.

Về địa tô: (CNTT bỏ qua vấn đề địa tô) W.Petty tìm thấy nguồn gốc của địa tô trong sản xuất. ĐN: “địa tô là số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm tiền lương và cp giống lúa)’. Theo đó, thực chất địa tô là giá trị rơi ra ngoài tiền lương của công nhân. Ông không rút ra được lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất, được trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột.

      K.Marx nhận xét W.Petty là người nêu ra mầm mống lý luận về chế độ bóc lột, dự đoán đúng đắn bản chất của giá trị thặng dư

Về lợi tức: ông cho rằng lợi tức là địa tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô. Trong cuốn bàn về tiền tệ, ông coi lợi tức là tiền thưởng, trả cho sự nhịn ăn tiêu coi lợi tức cũng như tiền thuê ruộng. Mức lợi tức phụ thuộc vào những điều kiện tự phát và những điều kiện này quyết định vận mệnh của sản xuất nông nghiệp. W.Petty nói: “người thầy thuốc giỏi sẽ không dùng thuốc quá liều để chữa cho bệnh nhân”

Về giá cả ruộng đất: W.Petty có công lao lơn, ông là người đã dùng lý luận giá trị lao động để giải quyết giá cả ruộng đất. ông khẳng định một cách đúng đắn rằng, giá cả ruộng đất phải được quy định một cách đặc biệt. vì người ta không sản xuất ra được đất đai. Theo ông: “ nông dân là cơ sở của thu nhập tiền tệ, mua đất đai là khả năng sử dụng tiền tệ tốt nhất. ông đã gắn liền giá cả ruộng đất với mức sinh lời của ruộng đất và ông kết luận giá cả ruộng đất ngang giá với lượng địa tô hằng năm”. Ông đư ra cách tính giá cả ruộng đất = (20 * địa tô)

Lợi nhuận: ông chưa đưa ra được khái niệm lợi nhuận nhưng theo cách lập luận của ông, tiền lương là mức tối thiểu trả cho công nhân, phần còn lại chính là lợi nhuận của địa chủ => ông đưa ra mầm mống của sự bóc lột

=> Ông là người đầu tiên nhấn mạnh tính chất khách quan của những quy luật tác động trong xã hội tư bản

=>  Đánh giá khái quát về W.Petty, F.Engels nói rằng: “Bón của W.Petty đã trùm lên xã hội kinh tế chính trị trong suốt hơn nửa thế kỷ từ 1691 đến 1752 tất cả mọi nhà kinh tế chính trị học dù tán thành hay phản đối ông đều lấy ông làm điểm xuất phát”

 

  III.          Adam Smith (1723-1790)

Đặc điểm phương pháp luận: mang tính 2 mặt, lẫn lộn những yếu tố khoa học và tầm thường

1.     Lý thuyết về trật tự tự nhiên (lý thuyết “bàn tay vô hình”)

-        Lý thuyết này thể hiện tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith

-        Điểm xuất phát của ông là nghiên cứu “con người kinh tế”:ông cho rằng loài người là  liên minh của sự trao đổi. Trao đổi là đặc tính vốn có của con người, trao đổi tồn tại vĩnh viễn cũng như loài người tồn tại vĩnh viễn. Khi trao đổi người ta chỉ biết tư lợi vì tư lợi và làm theo tư lợi, nhưng khi làm theo tư lợi lại có một “bàn tay vô hình” buộc “người kinh tế” đồng thời thực hiện một nhiệm vụ ngoài ý định của họ: “đôi khi còn tốt hơn khi họ có ý định làm điều đó là vì lợi ích xã hội”

Theo ông “bàn tay vô hình” chính là các quy luật kinh tế khách quan hoạt động một cách tự phát và chi phối sự vận động của con người kinh tế. Và ông gọi hệ thống các quy luật kinh tế đó là trật tự tự nhiên => trật tự tự nhiên và bàn tay vô hình là một

Ông khẳng định lợi ích cá nhân là lợi ích xuất phát, lợi ích xã hội là lợi ích phụ thuộc và lợi ích cá nhân là động lực làm cho nền kinh tế vận động một cách bình thường.

Ông còn chỉ ra điều kiện để cho các quy luật kinh tế khách quan hoạt động là phải phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, nên kinh tế phải phát triển theo tinh thần tự do kinh tế. Đó là tự do sx, tự do kd, tự do mậu dịch và tự do cạnh tranh

Ông phê phán gay gắt chế độ phong kiến, ca ngợi chế độ TBCN chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Theo ông, Xã hội bình thường là xã hội phát triển theo tinh thần tự do kinh tế, không cần sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế => xã hội tư bản. XH không bình thường là sản phẩm của sự độc đoán, cưỡng bức kinh tế => xã hội Phong kiến. Vì vậy nhà nước không cần can thiệp vào kinh tế, nhà nước nên có các chức năng sau:

Charge your account to get a detailed instruction for the assignment